Lịch sử trình diễn Carmen

Buổi trình diễn đầu tiên diễn ra ngày 3 tháng 3 năm 1875, cùng ngày hôm đó Bizet được trao Légion d'honneur. Trong số khán giả không chỉ có nhiều nhà soạn nhạc nổi tiếng: Charles Gounod, Jules Massenet, Léo Delibes, Charles LecocqJacques Offenbach,[14] mà gồm cả các ca sĩ Hortense Schneider, Zulmar Bouffar, Anna Judic, Jean-Baptiste Faure; các nhà xuất bản như Heugel, Choudens và Hartmann; Jules Pasdeloup, Alphonse DaudetDumas con.[15]

Theo nhật ký của Halévy, buổi khai diễn không diễn ra tốt. Dù đã có những tiếng gọi màn sau Màn I, và tiết mục diễn trong lúc nghỉ (entr'acte) tới Màn II và bài hát của Escamillo được tán thưởng, các Màn III và IV chỉ gặp được sự im lặng, ngoại trừ đoạn aria của Micaëla ở Màn III. Những lời phê bình rất gay gắt, cho rằng lời nhạc không đủ cho kịch. Bizet cũng bị cả hai bên trong cuộc tranh luận Wagnerian lên án, Ernest Reyer và Adolphe Jullien chỉ trích ông vì không theo một cách đích đáng phong cách của Wagnerm, trong khi những người khác chỉ trích ông vì đã khiến dàn hợp xướng trở nên quan trọng hơn các giọng ca.

Tuy nhiên, một số ít nhà phê bình, như Joncières và nhà thơ Théodore de Banville, đã ca tụng tác phẩm vì tính đột phá của nó. Banville tán dương những người viết lời vì đã viết lời cho các nhân vật một cách chân thực hơn những vai thường thấy trên Opéra-Comique. Tuy vậy, với những bình luận không tích cực, vở opera vẫn gắng để đạt được 48 buổi diễn trong đợt đầu tiên và đóng sau tháng 1. Tới cuối đợt diễn, ban quản lý đã bán sỉ toàn bộ vé trong một cố gắng vô ích nhằm lấp đầy chỗ. D'Indy, người đã tham gia tham gia từ đầu trong đợt diễn chơi đàn đạp hơi phía hậu trường để giữ Lhérie đúng điệu cho "Halte-la, dragons d’Alcala!" ở Màn II, thấy khán giả dần ít đi cho tới đêm cuối cùng, 15 tháng 2 năm 1876.[15]

Bức phác hoạ bản thân của Enrico Caruso như nhân vật Don José trong Carmen, 1904

Bizet không sống để thấy thành công của vở opera của mình: ông mất ngày 3 tháng 6, chỉ sau buổi diễn thứ ba mươi. Ngày trước hôm chết ông đã ký hợp đồng cho việc trình diễn Carmen ở Vienna.[16] Từ trước đó ba nhà soạn nhạc hàng đầu của châu Âu có thể được tính là những người ngưỡng mộ ông: Richard Wagner, Johannes Brahms[17]Pyotr Tchaikovsky[18]. Friedrich Nietzsche (trong The Case of Wagner) ca ngợi Bizet và đề cao các yếu tố ngoại lai của bảng phổ, cũng như là sự trong sáng về cấu trúc; "nó xây nên, tổ chức, kết thúc".

Tại đợt công diễn thứ hai này ở Hofoper tại Vienna ngày 23 tháng 10 năm 1875, công chúng không hề bị ảnh hưởng bởi các truyền thống của Opéra-Comique hay của thể loại, và ở quê nhà của âm nhạc Đức không có gì gợi nhớ tới Wagner dù chỉ là nhỏ nhất, vì thế khán giả đã có thể thưởng thức Carmen với các tính chất riêng của nó.[14]

Sau đợt diễn được đón nhận tốt ở Vienna, vở opera được diễn năm 1876 ở Brussels (tháng 2), Antwerp (tháng 4) và Budapest (tháng 10); tới năm 1878 nó được trình diễn tại St Petersburg, Stockholm, London, Dublin, New York và Philadelphia và vào năm 1879 nó đến tận Australia (Opera House, Melbourne, 14 tháng 5).[19] Buổi trình diễn đầu tiên tại Tây Ban Nha diễn ra ngày 2 tháng 8 năm 1881 tại Teatro Lirico Barcelona với Galli-Marié; Madrid được xem vở ngày 2 tháng 11 năm 1887 tại Teatro de la Zarzuela.[20] Galli-Marié đã tái tạo vai diễn chân dung của mình trong buổi trình diễn đầu tiên tại Italia (Naples) năm 1879, sau đó là Barcelona và Anh Quốc, và từ ngày 27 tháng 10 năm 1883 một lần nữa tại Paris.[21]

Sau khi tái xuất tại Paris năm 1883, nó cũng nhanh chóng nổi tiếng, đạt tới buổi diễn thứ 500 tại Opéra-Comique ngày 23 tháng 10 năm 1891 và 1,000 ngày 23 tháng 12 năm 1904.[22] Trong thế kỷ sau đó, nõ vẫn là một phần của vốn tiết mục opera căn bản.

Vai chính được viết cho giọng nữ trung (mezzo-soprano), nhưng bảng phổ đầy đủ xuất bản năm 1877 đưa ra những thay thế giọng nữ cao (soprano) cho Carmen, và điễu này đã dẫn tới việc một số giọng soprano trình diễn và thu âm vai này;[23] các giọng nữ trầm cũng thỉnh thoảng được thể hiện vai Carmen. Ca sĩ không chỉ phải có một âm vực rộng, mà phải có khả năng diễn xuất kịch siêu hạng để thể hiện tính cách phức tạp của Carmen, và có thể nhảy một cách lôi cuốn trên sân khấu.

Nhiều đoạn từ vở opera này đã trở nên nổi tiếng bên ngoài sàn diễn. Flower song, Toréador's SongHabanera đều là những bài được nhiều giọng ca ưa thích. Hai bản tổ khúc cho dàn nhạc đã được Fritz Hoffmann soạn: bản đầu gồm một khúc dạo đầu và nhiều đoạn xen giữa các màn, bản thứ hai gồm các bài có lời được soạn cho dàn nhạc.

Liên quan

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Carmen http://www.danzaballet.com/modules.php?name=News&f... http://www.imdb.com/find?s=tt&q=Carmen http://www.operacast.com/carmen.htm http://www.tracksounds.com/reviews/up_michael_giac... http://frenital.byu.edu/merimee/works/Carmen.html http://www.dlib.indiana.edu/variations/scores/aaz2... http://www.operaamerica.org/Content/Audiences/Prog... http://www.rwb.org/WhatsOn/TourPresenters/Repertoi... http://ahds.ac.uk/performingarts/collections/carme... http://www.ahds.ac.uk/performingarts/index.htm